Tăng cường hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
18/11/2014 Lượt xem: 900 In bài viếtTrong công tác quảnlý nhà nước về tài nguyên và môi trường, đất đai và khoáng sản luôn là lĩnh vựcđược cử tri cả nước quan tâm. Việc Quốc hội thông qua Luật Đất đai, Luật Khoángsản và Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) đã góp phần hoàn thiện thể chế, tạohành lang pháp lý, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về tài nguyên và môi trường(TN&MT). Từ góc độ cơ quan quản lý ngành, thời gian qua Bộ TN&MT cũngđã có nhiều nỗ lực, đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước vềlĩnh vực này. Cổng thông tin điện tử Bộ TN&MT trân trọng giới thiệu vềnhững giải pháp của Bộ về một số vấn đề nêu trên nhằm quản lý, bảo vệ, khaithác hiệu quả tài nguyên và môi trường của đất nước phục vụ phát triển kinh tế- xã hội.
Về quản lý nhà nước tài nguyên khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường,
triển khai Luật Khoáng sản: Bộ TN&MT đã tham mưu, trình Chính phủ ban
hành 4 Nghị định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 5 Quyết định. Bộ đã ban
hành theo thẩm quyền 11 Thông tư; phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư
liên tịch số 64/2012/TTLT-BTC-BTNMT sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số
186/2009/TT-BTC-BTNMT hướng dẫn phương pháp xác định giá trị, phương thức, thủ tục
thanh toán tiền sử dụng số liệu, thông tin về kết quả điều tra, thăm dò khoáng
sản của nhà nước và Thông tư liên tịch số 54/2014/TTLT-BTNMT-BTC quy định chi
tiết một số điều của Nghị định số 22/2012/NĐ-CP. Thời gian tới, Bộ sẽ ban hành
theo thẩm quyền các thông tư về: quy định kỹ thuật công tác điều tra đánh giá
địa chất môi trường khoáng sản độc hại; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia quy định
kiểm tra nội bộ phòng thí nghiệm trong phân tích mẫu địa chất khoáng sản rắn;
định mức kinh tế - kỹ thuật các công trình địa chất; quy định nội dung thanh
tra chuyên ngành khoáng sản; quy định về thăm dò, phân cấp trữ lượng và tài
nguyên các mỏ chì, kẽm; quy định về thăm dò, phân cấp trữ lượng và tài nguyên
các mỏ vàng gốc; quy định chi tiết thủ tục thẩm định, phê duyệt đề án, báo cáo
kết quả trong điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản. Phối hợp với Bộ Tài chính
ban hành Thông tư liên tịch quy định thủ tục góp vốn của tổ chức, cá nhân tham
gia đầu tư điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản.
Trong 8 tháng đầu
năm 2014, Bộ đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành
chính với tổng số tiền 5,26 tỷ đồng; thu hồi 1 giấy phép khai thác do quá thời
gian quy định mà không đưa mỏ vào hoạt động. Sau thanh tra, kiểm tra, Bộ đã có
Công văn đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chấn
chỉnh công tác quản lý nhà nước về khoáng sản, trong đó xử lý nghiêm các sai
phạm, tồn tại trong cấp phép. Đến nay đã có 18/22 tỉnh gửi báo cáo và đã triển
khai, khắc phục vi phạm.
Bên cạnh đó, thời
gian qua, việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản
gắn với bảo vệ môi trường theo Nghị quyết số 535/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội đã bước đầu đạt được một số kết quả tích cực: Hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về khoáng sản tiếp tục hoàn thiện; tình trạng cấp phép khai thác
khoáng sản “tràn lan” tại nhiều địa phương đã bước đầu được khắc phục; công tác
thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản hiệu quả hơn. Số
doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đóng cửa mỏ, phục hồi môi trường sau khai thác
khoáng sản tăng; việc xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong
lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản có chuyển biến tích cực, đến cuối tháng
8/2013 đã có trên 90% cơ sở được chứng nhận đạt yêu cầu; công tác ký quỹ phục
hồi môi trường trong khai thác khoáng sản đạt kết quả tốt; tình trạng khai thác
khoáng sản trái phép mặc dù còn khá “nóng” tại nhiều địa phương nhưng đã giảm
hơn về số lượng so với trước đây.
Mặc dù đã đạt được
những kết quả đáng kể song công tác triển khai quản lý nhà nước về tài nguyên
khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường tại các Bộ, ngành và địa phương vẫn còn
một số tồn tại, hạn chế. Bộ TN&MT đã báo cáo Chính phủ và đang khẩn trương
xây dựng Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường trách nhiệm của các Bộ,
ngành, địa phương trong thực thi chính sách, pháp luật về khoáng sản, trong đó
tập trung vào việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về khoáng sản;
tiến hành kiểm tra hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông; thu hồi sản phẩm từ
các dự án nạo vét, khơi thông luồng hàng hải; tiếp tục tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động khoáng sản, xử lý nghiêm tổ chức, cá
nhân vi phạm; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản.
Về tổ chức thi hành Luật Đất đai: Ngay sau khi Luật Đất đai 2013
được Quốc hội thông qua, Chính phủ đã ban hành 5 Nghị định, 13 Thông tư hướng
dẫn thi hành Luật, có hiệu lực thi hành cùng với Luật đất đai. So với Luật Đất
đai năm 2003, việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2013 đã
có nhiều ưu điểm về thời gian ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, giảm số
điều hướng dẫn quy định chi tiết thi hành Luật. Cụ thể, hiện Bộ TN&MT đã
trình Chính phủ Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
đất đai, sẽ trình Chính phủ Nghị định quy định về khung giá đất trong tháng 9
này. Đồng thời, đang hoàn thiện Thông tư quy định việc tổ chức đấu giá quyền sử
dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất; 2 Thông tư liên
tịch quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Văn phòng
Đăng ký đất đai và cơ chế hoạt động của Tổ chức phát triển quỹ đất để ban hành
trong thời gian tới.
Cùng với đó, ngay
sau khi Luật Đất đai và các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật được ban
hành, Bộ TN&MT đã in văn bản, tổ chức các Hội nghị giới thiệu, phổ biến nội
dung, tập huấn nghiệp vụ, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng, phổ biến sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân nhân và các cơ quan, tổ chức.
Việc chỉ đạo, đôn đốc và hướng dẫn các địa phương thi hành Luật Đất đai cũng
được triển khai quyết liệt. Bộ TN&MT đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chị thị số 01/CT-TTg ngày 22/1/2014, trong đó giao trách nhiệm cụ thể
cho các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương triển khai các nhiệm vụ
giải pháp để đưa Luật vào cuộc sống. Bộ đã có các văn bản hướng dẫn triển khai
xây dựng bảng giá đất năm 2015; đôn đốc các địa phương rà soát ban hành văn bản
thi hành Luật theo thẩm quyền; thống nhất triển khai các vấn đề trong quá trình
chuyển tiếp Luật.
Cải cách thủ tục
hành chính trong lĩnh vực đất đai có nhiều bước đột phá: Rút gọn số lượng; Quy
định cụ thể nơi nộp hồ sơ và trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất
đai đối với từng loại thủ tục; Bỏ một số loại giấy tờ phải nộp trong thành phần
các loại hồ sơ; Bổ sung quy định giao dịch điện tử, đăng ký điện tử để làm cơ
sở pháp lý cho việc thực hiện trong điều kiện công nghệ thông tin đang ngày
càng phát triển; Quy định cụ thể việc cung cấp thông tin, luân chuyển hồ
sơ giữa Văn phòng Đăng ký đất đai, cơ quan thuế và việc xác định
nghĩa vụ tài chính. Bộ thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai
cũng đã được Bộ TN&MT công bố ngày 27/8/2014.
Thời gian tới, Bộ sẽ
tiếp tục tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực thi các quy
định về thủ tục hành chính về đất đai; Tập trung đôn đốc, hướng dẫn
và chỉ đạo các địa phương kiện toàn và tổ chức lại Văn phòng Đăng
ký đất đai, tổ chức phát triển quỹ đất một cấp trước ngày 31/12/2014 theo
yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ; Tập trung và đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống
thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai nhằm đơn giản và rút ngắn thời
gian thực hiện thủ tục; Tiếp nhận và xử lý các phản ánh, kiến nghị của cá
nhân, tổ chức đối với thủ tục hành chính thuộc chức năng quản lý của Bộ.
Về tình trạng sử dụng đất lãng phí và việc xử lý tại địa phương: Bộ
TN&MT đã phối hợp với các địa phương tiến hành thanh tra, kiểm tra trên
diện rộng các dự án sử dụng đất chậm tiến độ, gây lãng phí đất đai. Kết quả,
tổng hợp số liệu báo cáo của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tính đến
ngày 31/12/2013 có 8.909 tổ chức vi phạm với diện tích 137.651 ha. Các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đã xử lý 5.182/8.909 tổ chức (đạt 62,60%) với diện
tích đất 114.177/137.651 ha (đạt 82,90%). Nguyên nhân chủ yếu do Luật Đất đai
2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành thiếu cơ chế để xử lý chi phí đầu tư vào
đất còn lại của các chủ đầu tư nên dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi đất. Để
khắc phục những hạn chế trên, Luật Đất đai 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
đã bổ sung chế tài xử lý theo hướng cho phép gia hạn 24 tháng và chủ đầu
tư phải nộp một khoản tiền tương ứng với tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất trong thời hạn đó. Nếu hết 24 tháng cho phép chậm tiến độ
này mà vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà
không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất. Luật cũng đưa ra
các quy định để ngăn ngừa phát sinh mới các trường hợp dự án chậm triển khai,
để lãng phí đất đai như: Việc giao thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất phải căn cứ vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm để đảm bảo
phù hợp với khả năng đầu tư và huy động nguồn lực của địa phương...
Về vấn đề sử dụng đất trồng lúa, triển khai Nghị định số 42/2012/NĐ-CP
về quản lý, sử dụng đất trồng lúa: Bộ đã ban hành các văn bản hướng dẫn các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng
lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng để thực hiện các công trình, dự án
của các địa phương. Đến nay, Bộ đã tiếp nhận 115 văn bản của các địa phương đề
nghị chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc
dụng để thực hiện các công trình, dự án. Bộ đã xử lý, lấy ý kiến của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn 87 văn bản, còn 28 văn bản đang rà soát hoặc đề
nghị bổ sung hồ sơ. Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận 44 văn bản của Bộ trình,
cho phép các địa phương chuyển mục đích 6.013 ha đất (5.724 ha đất lúa, 275 ha
đất rừng phòng hộ, 14 ha đất rừng đặc dụng) để thực hiện dự án. Luật Đất đai
2013 và các Nghị định quy định chi tiết tiếp tục kế thừa các quy định của Nghị
định số 42/2012/NĐ-CP để kiểm soát chặt chẽ việc quản lý và sử dụng đất trồng
lúa. Nhằm tạo sự chủ động của các địa phương trong quyết định chủ trương chuyển
mục đích sử dụng đất lúa, đất có rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, Luật đất đai quy
định đối với trường hợp dự án có sử dụng dưới 10 ha đất trồng lúa; dưới 20 ha
đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội
đồng nhân dân cùng cấp quyết định chủ trương trước khi cho phép chuyển mục
đích.
Công tác cấp GCN
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo
Nghị quyết số 30/2012/QH13: Bộ đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành
Chỉ thị số 1474/CT-TTg và Chỉ thị 05/CT-TTg để triển khai thực hiện; cùng với
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tập trung chỉ đạo thực hiện cấp GCN bằng
nhiều biện pháp quyết liệt, có hiệu quả. Tính đến 31/12/2013, các địa phương đã
cơ bản hoàn thành mục tiêu (đạt trên 85%) cấp GCN quyền sử dụng đất theo Nghị
quyết số 30/2012/QH13 của Quốc hội. Cả nước đã cấp được 41,6 triệu GCN với tổng
diện tích 22,9 triệu ha, đạt 94,8% diện tích các loại đất đang sử dụng phải cấp
GCN (diện tích cần cấp); trong đó 5 loại đất chính của cả nước đã cấp được 40,7
triệu GCN với tổng diện tích 22,3 triệu ha, đạt 94,6% diện tích cần cấp và đạt
96,7% tổng số trường hợp sử dụng đất đủ điều kiện cấp GCN. Như vậy, kết quả cấp
GCN lần đầu của cả nước đã đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Trong thời gian tới, Bộ
sẽ tiếp tục đôn đốc một số tỉnh còn một số loại đất chưa hoàn thành cơ bản việc
cấp GCN; hướng dẫn các địa phương đẩy nhanh tiến độ cấp GCN quyền sử dụng đất
theo bản đồ địa chính, trích đo địa chính có tọa độ để hoàn thành cơ bản vào
năm 2015.
Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
các vụ việc khiếu nại tố cáo, tồn đọng kéo dài, Bộ TN&MT đã giải quyết
cơ bản vụ việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ và rà soát, thống nhất giải
quyết 29/30 vụ việc tồn đọng, kéo dài trong 528 vụ việc. Phân định rõ thẩm
quyền, trách nhiệm của ngành, địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân, đảm bảo giải quyết kịp thời, hiệu quả; hạn chế phát sinh vụ việc đông
người, phức tạp mới; làm chuyển biến nhận thức, góp phần ổn định tình hình an
ninh, trật tự và chính trị xã hội. Nhiều địa phương đã chủ động có văn bản hoặc
trực tiếp làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường để trao đổi, xin ý kiến về
các vướng mắc trong giải quyết vụ việc phức tạp, tạo sự đồng thuận cao trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo còn tồn tại, hạn chế và khó khăn trong giải quyết
khiếu nại, tranh chấp, một số địa phương; Nguồn nhân lực làm công tác tiếp công
dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai vừa thiếu
về số lượng, vừa yếu về chất lượng ở cả cấp Trung ương và địa phương...
(Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường)